Thứ Ba, 14 tháng 3, 2017

Những kẻ ấu dâm thường mắc chung loại bệnh này! Nhưng đừng vì thế xa lánh họ, bởi giúp họ cũng chính là bảo vệ con em chúng ta

Tại Việt Nam, người ta thường dùng chung từ "ấu dâm" để chỉ cả những người "ái nhi" và những kẻ phạm tội xâm phạm tình dục với trẻ em. Còn trên thực tế, những kẻ ấu dâm thường mắc chung một loại bệnh gọi là ái nhi.


 
Hành vi xâm hại tình dục trẻ em, hay còn được gọi là "ấu dâm" được xếp vào hàng đáng khinh bỉ nhất trong tất cả các loại hình phạm tội.

Những hành động này không chỉ phá hủy tuổi thơ non nớt và tâm hồn trong sáng của trẻ thơ, chúng còn để lại những vết thương về tâm lý cho nạn nhân đến khi trưởng thành. Thậm chí còn có thể dẫn đến nhiều suy nghĩ lệch lạc về tư tưởng cũng như giới tính.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, chúng ta thường dùng chung từ "ấu dâm" để chỉ cả những người "ái nhi" và những kẻ phạm tội xâm phạm tình dục với trẻ em.

Ấu dâm có phải là một loại bệnh?

Trên thực tế, có nhiều người thường nhầm lẫn ấu dâm là một loại "bệnh", nhưng thực chất tên gọi đúng của loại bệnh này là ái nhi - một từ ghép tiếng Hán gồm chữ ái (có nghĩa là yêu), và chữ nhi (có nghĩa là trẻ em).

Theo khoa học, ái nhi là một bệnh lý có tên pedophilia, còn ấu dâm là được cấu thành tội khi một người có hành vi xâm hại tình dục trẻ em, được gọi là "child sexual abuse" hay "child molestation".

Hay nói nôm na rằng, ái nhi là bệnh, còn hành vi ấu dâm là một tội. Đây là điều mà các bậc làm cha mẹ cần lưu ý để có những biện pháp hay điều chỉnh kịp thời với những mối quan hệ xung quanh con trẻ.

Bên cạnh đó, cần hiểu rõ vấn đề, những người mắc chứng ái nhi không phải là người phạm tội xâm hại trẻ em. Nếu không có những hành vi như vậy, những người mắc chứng ái nhi vẫn là những người dân bình thường vô tội, dù tư tưởng của họ hướng về những hành động không được cho phép.

Theo James Cantor - một chuyên gia quốc tế nghiên cứu về lĩnh vực này - thì đây giống như bệnh lý về thiên hướng độ tuổi. Có nghĩa là thay vì những người bình thường có nhu cầu và ham muốn đối với những người ở độ tuổi trưởng thành thì những người mắc chứng ái nhi lại có ham muốn với trẻ em, và đó đương nhiên là những hành động không bao giờ được xã hội chấp nhận.

Hơn thế nữa, nếu coi ái nhi là một bệnh tâm lý thì hoàn toàn không có thuốc nào đảm bảo chữa lành bệnh cho họ. Thay vào đó là những biện pháp tâm lý phù hợp để họ có thể định hình lại tư tưởng, hướng họ đến những suy nghĩ, ham muốn "bình thường" hơn.

Thực chất, những người ái nhi cũng rất cần được giúp đỡ. Và giúp họ cũng chính là để bảo vệ chúng ta!

Trong các nghiên cứu cao hơn về lĩnh vực này đã chỉ ra, căn bệnh ái nhi có liên quan đến cấu trúc não bộ, đồng nghĩa với việc đây là bệnh do bẩm sinh.

Các giải pháp tâm lý là cách duy nhất ở thời điểm hiện tại để giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và không phạm tội ấu dâm. Nếu cần thiết hoặc gặp trường hợp quá nghiêm trọng, các chuyên gia sẽ khuyên người bệnh nên nhờ khoa học can thiệp bằng cách sử dụng một loại chất hóa học để "triệt" vĩnh viễn khả năng sinh sản của họ.

Vì đây là một chứng bệnh liên quan đến tâm lý, nên theo nhiều thống kê thì những người ái nhi sẽ dễ "mất tự chủ" nhất bị xã hội quay lưng hay kì thị, tương tự như những suy nghĩ tiêu cực của những người mắc HIV.

Hơn nữa, người ái nhi thường mặc cảm với xã hội nên không bao giờ dám thừa nhận bản thân. Vì thế họ càng không muốn tìm đến sự giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý để có thể nhận được những lời khuyên và các liệu pháp tâm lý phù hợp.

Khác hẳn với các nước phát triển phương Tây, trẻ em nước ta chưa được phổ cập nhiều các kiến thức cần thiết liên quan đến vấn đề giới tình, tình dục nên rất ít trẻ nhỏ có khả năng tự bảo vệ bản thân khỏi những hành vi sai trái.

Do vậy, chúng ta cần phải thay đổi từ suy nghĩ đến hành động. Suy nghĩ sai lầm về bệnh lý ái nhi và cả những thay đổi trong cách nuôi dạy con trẻ cách tự bảo vệ bản thân. Bổ sung cho con em chúng ta những bài học để hiểu rằng cơ thể là điều riêng tư không ai ngoài bố mẹ được phép xâm phạm.

Hiện tại ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu rất hữu dụng để có thể áp dụng vào việc giáo dục trẻ em như quy tắc bàn tay của Thạc sĩ Lan Hải.

Theo quy tắc này, người lớn có thể dạy trẻ em về 4 vòng tròn tưởng tượng trong lòng bàn tay mình với nguyên tắc: những vòng tròn càng nhỏ thì sẽ càng thân thiết hơn với bản thân, càng được có những hành động thân thiết hơn.

Vòng tròn đầu tiên cũng là nhỏ nhất trong lòng bàn tay của trẻ chỉ dành cho những người ruột thịt, có những đặc quyền sử dụng các cử chỉ thân mật như ôm, hôn, bế ẵm hay ngồi vào lòng.

Vòng tròn tiếp theo lớn hơn sẽ dành cho nhiều nhóm người người thân, họ hàng, thầy cô, bạn bè, họ được quyền nắm tay, xoa đầu, vuốt tóc, vỗ vai.

Vòng tròn thứ 3 dành cho người quen, hàng xóm, người lớn, trẻ được quyền bắt tay, chào hỏi trò chuyện.

Vòng tròn thứ 4, lớn nhất dành cho người lạ, nhóm người này trẻ chỉ được phép vẫy tay chào hay tạm biệt.

Mọi hành động nằm ngoài "quyền hạn" của những vòng tròn đều không được cho phép. Cần tỏ thái độ không đồng ý như xua tay hoặc hét to, bỏ chạy nhờ người thân giúp đỡ.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét